SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG NHÃN KHOA
Nhìn chung, mọi khuyến cáo áp dụng cho kháng sinh toàn thân
cũng áp dụng cho kháng sinh dùng trong nhãn khoa.
Điểm khác biệt khi sử dụng kháng sinh trong nhãn khoa so với
trong các bệnh lý khác chủ yếu liên quan đến đường dùng thuốc. Và điều mà mọi
nhà nhãn khoa đều quan tâm khi sử dụng kháng sinh là đặc điểm của kháng sinh
trong mắt và khả năng thấm của kháng sinh vào các tổ chức nhãn cầu.
ĐƯỜNG DÙNG KHÁNG SINH TRONG NHÃN KHOA
Khuyến cáo chung về lựa chọn đường dùng kháng sinh trong
nhãn khoa:
Ưu tiên điều trị bằng đường tra mắt.
Chỉ khi điều trị bằng đường tra mắt kém hiệu quả, hoặc đối với
nhiễm khuẩn nặng, cần phối hợp thêm phương pháp truyền rửa tại mắt, tiêm tại mắt
hoặc các phương pháp điều trị toàn thân. [1]
Điều trị tại chỗ
Điều trị tại chỗ bao gồm: Tra thuốc tại mắt, tiêm tại mắt,
truyền rửa tại mắt.
Tra thuốc tại mắt
Chỉ định: Điều trị các nhiễm khuẩn tại mắt.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm:
Kháng sinh tập trung chủ yếu tại mắt, ít hấp thu vào tuần
hoàn nên hạn chế được tác dụng phụ toàn thân.
Thuận tiện, dễ sử dụng, người bệnh có thể tự sử dụng tại nhà
theo sự hướng dẫn của thầy thuốc.
Nhược điểm:
Thuốc nhanh chóng bị rửa trôi, đặc biệt với thuốc tra mắt dạng
lỏng.
Một số kháng sinh khó vượt qua được hàng rào sinh lý để tiếp
cận tổ chức bị viêm.
Hai dạng thuốc tra mắt kháng sinh thường gặp
Thuốc tra mắt dạng lỏng: phải dùng nhiều lần trong ngày và
không nên chớp mắt nhiều sau khi tra thuốc. Đối với thuốc ở dạng dịch treo, khi
sử dụng phải lắc đều lọ thuốc để bảo đảm các thành phần thuốc được đưa vào mắt.
Thuốc mỡ: có thời gian tồn tại ở mắt dài hơn và khả năng thấm
qua giác mạc cao hơn so với thuốc nước nên có thể giảm tần suất dùng thuốc, thường
được dùng trước khi đi ngủ. [1,2]
Các kháng sinh tan trong lipid (như
cloramphenicol, các tetracyclin, các fluoroquinolon) dễ dàng xâm nhập biểu mô
giác mạc hơn các kháng sinh tan trong nước. [4]
Nếu phải phối hợp nhiều loại thuốc tra mắt thì cần tra
các thuốc dạng lỏng trước, thuốc dạng mỡ sau. Các thuốc tra cách nhau ít nhất
5 phút để tránh sự rửa trôi. [4]
Tiêm tại mắt
Chỉ định
Phối hợp với đường tra mắt nhằm đưa lượng kháng sinh nhiều
hơn vào vị trí nhiễm khuẩn trong mắt.
Ưu nhược điểm
Ưu điểm: có thể đạt nồng độ cao của kháng sinh tại vị trí
nhiễm khuẩn.
Nhược điểm: có thể xảy ra nhiều biến chứng hơn.
Các phương pháp tiêm tại mắt
Tiêm dưới kết mạc:
Để điều trị các bệnh phần trước của nhãn cầu và cũng được áp
dụng khi kết thúc cuộc mổ để chống viêm nội nhãn. Một số loại thuốc không thấm
được vào nhãn cầu qua con đường tra mắt, khi được tiêm dưới kết mạc có thể khuếch
tán vào mắt qua vùng rìa giác mạc hoặc củng mạc.
Tiêm cạnh nhãn cầu:
Phương pháp này đặc biệt hữu ích với các thuốc ít tan trong
lipid (như penicilin), không thấm vào tổ chức nhãn cầu nếu dùng đường tra mắt.
Có thể tiêm lidocain trước hoặc cùng lúc với tiêm kháng sinh
để giảm khó chịu cho người bệnh. Thuốc tê không làm giảm hoạt lực của thuốc
kháng sinh.
Tiêm trong tiền phòng: Dùng trong những trường hợp
viêm màng bồ đào nặng, nhiễm khuẩn nội nhãn hoặc trong phẫu thuật.
Tiêm trong dịch kính:
Đưa thuốc trực tiếp vào trong nhãn cầu để điều trị nhiễm khuẩn
nội nhãn nặng. + Lượng thuốc được dùng rất nhỏ (0,1 - 0,2ml), với nồng độ
thấp vì nồng độ cao sẽ rất độc cho thủy tinh thể và võng mạc (nồng độ cho từng
loại thuốc được dựa trên các nghiên cứu lâm sàng cụ thể).
Phương pháp truyền, rửa tại mắt
Áp dụng cho một số trường hợp nhiễm khuẩn nặng (chẳng hạn
viêm loét giác mạc do trực khuẩn mủ xanh), để đưa kháng sinh vào mắt được liên
tục, rửa trôi các chất hoại tử và vi khuẩn gây bệnh. [1]
Điều trị toàn thân (uống, tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch...) -
Chỉ định:
Được áp dụng khi thuốc tra kém hiệu quả, đối với các nhiễm
khuẩn nặng hoặc bệnh ở mắt có căn nguyên toàn thân.
Áp dụng đối với các thuốc có khả năng xâm nhập tốt qua hàng
rào máu - mắt khi dùng toàn thân.
Điều trị các các nhiễm khuẩn trong hốc mắt hoặc phần phụ của
mắt (mi mắt, tuyến lệ và ống lệ mũi) vì hàng rào máu - mắt không tồn tại ở các
cầu trúc này, do đó các kháng sinh dùng toàn thân sẽ dễ dàng tiếp cận với các vị
trí viêm.
Nhược điểm:
Thuốc vào mắt rất ít do bị cản trở bởi hàng rào máu - mắt
Tác dụng phụ nhiều và nặng hơn so với khi dùng đường tra mắt.
Khả năng xâm nhập của thuốc qua hàng rào máu - mắt phụ
thuộc vào:
Khả năng tan trong lipid: Các thuốc dễ tan trong lipid dễ
dàng đi qua được hàng rào máu - mắt. Ví dụ: Cloramphenicol, dễ tan trong lipid,
thấm gấp 20 lần so với penicilin, là thuốc ít tan trong lipid. Fluoroquinolon
xâm nhập tốt qua hàng rào máu - mắt.
Nồng độ thuốc liên kết với protein huyết tương: Chỉ ở dạng tự
do, thuốc mới đi qua được hàng rào máu - mắt. Ví dụ: Các sulfonamid tan trong
lipid nhưng khả năng xâm nhập kém do liên kết cao với protein huyết tương (trên
90%). [3]
Tình trạng viêm của mắt: Ở mắt nhiễm khuẩn, hàng rào máu - mắt
bị phá vỡ, các kháng sinh có thể vào mắt được dễ dàng hơn khi dùng theo đường
toàn thân. [5] -
Điều trị toàn thân bao gồm:
Đường uống.
Tiêm bắp: được dùng khi có bệnh lý tại các mô mềm hoặc các
mô có nhiều mạch như tiêm kháng sinh điều trị các viêm mi, hốc mắt, màng bồ
đào...
Tiêm tĩnh mạch: thường tiêm tĩnh mạch kháng sinh điều trị
viêm nội nhãn. [2]
CÁC KHÁNG SINH THƯỜNG DÙNG TRONG NHÃN KHOA
Kháng sinh nhóm Beta-lactam
Khả năng thấm qua hàng rào máu mắt kém. Tuy nhiên, khả năng
thấm tăng ở mắt bị viêm và khi uống cùng probenecid.
Kháng sinh penicilin:
Phổ tác dụng: Phổ kháng khuẩn rộng, nhưng hiệu quả tốt nhất
trên vi khuẩn Gram dương.
Không bền vững trong dạng dung dịch và khó thấm qua giác mạc
nên không được pha chế để tra mắt.
Hay gây dị ứng nên hiện nay ít dùng. [2]
Kháng sinh cephalosporin:
Phổ tác dụng: tương tự penicilin.
Không có chế phẩm tra mắt nhưng cephalosporin có thể được
dùng để điều trị loét giác mạc do vi khuẩn dưới dạng thuốc tra mắt được pha chế
theo đơn (0,5%) từ thuốc tiêm khi cần thiết.
Cefotaxim thấm qua hàng rào máu - mắt tốt hơn so với các
cephalosporin khác. [3]
Các sulfonamid
Phổ tác dụng: Kháng sinh kìm khuẩn, phổ kháng khuẩn rộng
trên cả vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Hiệu quả tăng khi phối hợp với
trimethoprim.
Dung dịch tra mắt sulfacetamid (10 - 30%) thấm qua biểu mô
giác mạc tốt.
Chế phẩm: sulfacetamid dạng bào chế có cả dung dịch, mỡ tra
mắt, đơn độc hoặc phối hợp với corticoid. Do tỷ lệ kháng thuốc cao và gây nhiều
tác dụng không mong muốn khi tra mắt (kích ứng, phù hốc mắt,...) nên hiện nay
ít sử dụng. Hơn nữa, nó còn tương kỵ với các thuốc tê tra mắt như procain và
tetracain. [2,3]
Các tetracyclin
Phổ tác dụng: Phổ rộng, ưu thế trên vi khuẩn Gram âm. Hiện
nay hiệu quả điều trị của nhóm này giảm mạnh, tỷ lệ kháng thuốc tăng nên hầu
như không còn được lựa chọn để điều trị nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, tetracyclin vẫn
hiệu quả trong điều trị và phòng ngừa viêm kết mạc sơ sinh, phối hợp đường uống
trong điều trị nhiễm Chlamydia tại mắt và điều trị chức năng
tuyến mi mắt.
Tetracyclin thấm tốt qua biểu mô giác mạc khi tra mắt.
Chế phẩm: viên nén, nang 250mg; thuốc mỡ tra mắt nồng độ 1%.
[2,3]
Cloramphenicol
Phổ tác dụng: Rickettsia, Chlamydia, Mycoplasma... (P.
aeruginosa kháng thuốc này)
Cloramphenicol thấm tốt qua biểu mô giác mạc khi tra mắt,
qua được hàng rào máu - mắt khi dùng toàn thân. Chỉ định dùng toàn thân chỉ áp
dụng khi nhiễm khuẩn nặng đe doạ tính mạng mà vi khuẩn kháng lại hết các thuốc
ít độc khác.
Chế phẩm: Tại mắt, cloramphenicol có dạng mỡ, dung dịch tra
mắt 0,4%, hiệu quả cao trong điều trị nhiễm khuẩn ngoài nhãn cầu. [2,3]
Các aminoglycosid: neomycin, gentamycin, tobramycin,
amikacin...
Phổ tác dụng: Phổ rộng, nhưng tác dụng mạnh hơn trên vi khuẩn
Gram âm. -
Kém hấp thu khi qua đường tiêu hóa nhưng hấp thu tốt khi tiêm tĩnh mạch, tiêm bắp.
Không dễ dàng xâm nhập hàng rào máu - mắt nhưng có thể dùng tra mắt dạng nước,
mỡ hoặc tiêm cạnh nhãn cầu.
Độc tính cao cho thính lực và tiền đình nên hạn chế sử dụng
toàn thân. Khi tra tại mắt trong thời gian dài có thể gây độc với biểu mô giác
mạc, trợt biểu mô dạng đốm, chậm liền biểu mô, thiếu máu, phù kết mạc....
Amikacin ít độc hơn so với các aminoglycosid khác.
Đang truy cập: 2
Hôm nay: 20
Tổng lượt truy cập: 9,781